TÓM TẮT TIỂU SỬ CHÙA VĨNH TRÀNG
Chùa Vĩnh Tràng là một ngôi chùa ở ấp Mỹ An, xã Mỹ Phong, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. Đây là một ngôi chùa nổi tiếng ở miền Nam, được xếp hạng di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia, và là một điểm du lịch nổi tiếng.
Lịch sử
Đầu thế kỷ XIX, chùa được ông bà Bùi Công Đạt bắt đầu xây dựng.
Năm 1894, Hòa thượng Thích Huệ Đăng ở chùa Giác Lâm (Gia Định) về trụ trì đã tổ chức xây dựng thành ngôi đại tự và đặt tên là chùa Vĩnh Trường với ngụ ý ước cho chùa được “Vĩnh cửu đối sơn hà, trường tồn tề thiên địa”. Người dân vùng lân cận đến nay vẫn quen gọi là chùa Vĩnh Tràng.
Năm 1907, Hòa thượng Chánh Hậu đã cho trùng kiến ngôi chùa, pha hòa cả nét kiến trúc Á – Âu.
Kiến trúc
Chính điện được bài trí trang nghiêm. Chùa còn bảo tồn nhiều tượng cổ, bao lam chạm trổ công phu. Bộ Thập bát La hán thượng kỳ thú là những tác phẩm tượng tròn độc đáo được các nghệ nhân Nam Bộ tạc vào những năm đầu thế kỷ 20.
Chùa được xây cất do công trình kiến trúc của nhiều người, trong nhiều năm, là một chùa lớn, được kiến trúc khá tinh vi, đa dạng theo lối kiến trúc tổng hợp Á – Âu (Pháp, La Mã, Thái, Miên, Chàm). Tuy nhiên, chùa vẫn mang đậm nét lối kiến trúc điêu khắc truyền thống Việt Nam.
Chùa Vĩnh Tràng được kiến trúc theo dạng chữ Quốc, gồm 4 gian nối tiếp nhau (tiền đường, chánh điện, nhà tổ và nhà hậu) rộng 14.000 m², dài 70 m, rộng 20 m, xây bằng xi măng và gỗ quý, nền đúc cao 1 m, xung quanh xây tường vững chắc.
Phía trong gian chính điện và nhà tổ làm theo kiểu Trung Quốc nhưng vẫn giữ được nét kiến trúc Việt Nam, nối hai gian này là một khoảng nhỏ có hòn non bộ ở giữa, hòn non bộ này phác họa lại cảnh thiên nhiên sinh động mang bản sắc Việt Nam, điều đó chứng tỏ rằng tổ tiên ta nhễ muốn đưa thiên nhiên vào tận nhà. Đúng trên hòn non bộ nhìn về mặt sau gian chánh điện, hai bên nhà cầu, mặt trước nhà tổ, ta sẽ thấy lối kiến trúc Rôma với những hàng đá hoa màu sắc sặc sỡ của Pháp được trang trí trên thành nóc, trên những cột xây bằng xi măng kiểu cách.
Đi vào từng gian ta sẽ thấy một màu vàng óng ánh được thếp rên các hình chạm, trên các tượng phật. Đáng chú ý hơn cả là những đôi long trụ trong gian chính điện, đó là những cây cột tròn to, bằng gỗ quý kiến trúc theo kiểu “thượng thu hạ cách”.
Trước chùa có 2 cổng Tam quan kiểu võ rất tinh xảo, xây theo kiểu cổ lầu để hình hòa thượng Lê Ngọc Xuyên đúng trên bậc đúc bằng xi măng, cửa ngõ này cẩn toàn bằng đồ sứ có giá trị (sứ Trung Hoa, Việt Nam) in hình long, lân, quy, phượng. Canh, mục, ngư tiều, mấy câu đối cũng cẩn bằng miếng chai nổi mầu sắc óng ánh trông rất đẹp.
Tóm lại, bằng những vất liệu gỗ, những nhà kiến trúc, nhà điêu khắc cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã chạm khắc những hình tượng mang mầu sắc tôn giáo huyền ảo, thoáng đượm vẻ vương quyền, qua đó ta thấy được những công trình điêu khắc của người xưa – qua những hình tượng sống động ấy ta thấy rõ cuộc sống vui tươi và ý chí vươn lên của dân tộc Việt Nam – một dân tộc tự nhận mình là dòng dõi con rồng cháu tiên thể hiện qua chạm khắc hình tượng tứ linh.
Chùa Vĩnh Trường được trang bị trên 60 tượng phật đúc bằng gỗ, đồng, đất nung, xi măng, đa số tượng bằng gỗ, tất cả được thếp vàng óng ánh và được tạo vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Riêng 3 tượng đồng (Di đà, cao 98 cm, Quan Âm và Thế Chí cao 93 cm) được tạo tác giữa thế kỷ XIX.
Bên cạnh những pho tượng, hiện vật còn lại trong chùa này phải kể dến là Đại Hồng Chung mang tên Pháp Bảo Chuông cao 12 cm, nặng khoảng 150 kg được đúc giữa tháng 5 năm 1854 trên đó khắc chữ “Vĩnh Trường Tự”. Hiện nay Pháp Bảo Chuông không sử dụng được, bị hỏng do nằm lâu dưới nước sau thời gian thất lạc.
Ngoài ra trong chùa hiện nay còn hơn 20 bức tranh sơn thủy rất giá trị. Tuy ảnh hưởng tranh vẽ Trung Quốc nhưng những bức vẽ này mang đậm nét dân gian Việt Nam, in hình “Mai, lan, cúc, trúc” in hình phong cảnh Việt Nam rất nên thơ. Đó là công trình của Long Giang cư sĩ phác họa năm 1904.
Điều đáng chú ý là những bức hoành, câu đối trong chùa được điêu khắc chữ nổi thếp vàng như những chữ “Hoàng kim bửu điện” được khắc từ 1851 đến nay vẫn còn khá đẹp.
Từ trước tới nay, ngôi chùa vẫn được bảo quản tốt, bổn đạo khắp nơi vẫn thường đến viếng, góp tiền của cho việc tu sửa chùa, các tu sĩ trong chùa vẫn chú trọng công tác bảo vệ chùa.
Gần đây, chùa đã xây dựng thêm một tượng Phật đừng rất vĩ đại. Tượng màu trắng, diễn tả Phật đang đứng trông nom chúng sinh các cõi. Tượng Phật được nhiều người địa phương cho là biểu tượng của ngôi chùa hiện nay.
Ngôi chùa mang hai phong cách kiến trúc
Chùa Vĩnh Tràng xây dựng hoàn thành vào năm 1849, tọa lạc trên diện tích khoảng 3 héc ta trên đường Nguyễn Trung Trực, xã Mỹ Phong, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.Năm 1984, chùa Vĩnh Tràng được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia.
Tháng 5-2007, chùa Vĩnh Tràng được Trung tâm Sách kỷ lục Việt Nam công nhận là ngôi chùa đầu tiên ở Việt Nam có phong cách kiến trúc kết hợp giữa phương Đông và phương Tây.
Ấn tượng đầu tiên là pho tượng Phật Di Đà cao 24 mét (bệ 6m, tượng 18m) sừng sững trong một hoa viên rộng rãi có nhiều cây kiểng đẹp mắt. Hoa viên được xây dựng trên nền một nghĩa trang cũ, khởi công ngày rằm tháng Giêng, và hoàn tất vào mồng 8 tháng Chạp năm Đinh Hợi (2007).
Cặp hông hoa viên, theo con đường êm ả dưới bóng hai hàng sao dầu luôn reo nhạc lá, sẽ thấy hai cổng chùa Vĩnh Tràng không giống bất kỳ cổng tam quan một ngôi chùa nào khác. Đó là hai cổng tháp xi măng theo lối “cổ lầu” cao “chênh vênh” như muốn “chạm” trời xanh.
Cổng tháp được ốp sành sứ nhiều màu đẹp mắt, thể hiện các chủ đề “long lân quy phụng”, “ngư tiều canh mục”, chim hoa cùng các Phật tích, cho thấy tay nghề điêu luyện của những người thợ xứ Huế tài hoa vào năm 1933.
Từ xa, nóc chùa Vĩnh Tràng có năm ngọn tháp uy nghi, nổi bật trên nền trời xanh. Năm ngọn tháp này được xây dựng theo quan niệm phương Đông là “ngũ hành” (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ); thoáng chút dáng dấp kiến trúc ngôi đền Angkor nổi tiếng của đất Chùa Tháp.
Hai cổng chùa Vĩnh Tràng không
giống bất kỳ tam quan một ngôi
chùa nào khác. Đó là hai cổng
tháp xi măng theo lối “cổ lầu”.
Chính điện chùa Vĩnh Tràng được xây bằng bê-tông theo hình chữ “Quốc” như các chùa Hoa nhưng chùa Vĩnh Tràng có những hoa văn theo kiểu thời Phục Hưng, vòm cửa theo kiểu La Mã, bông sắt theo phong cách Pháp, nền lót gạch men Nhật Bản. Riêng chữ Hán được viết theo kiểu chữ triện cổ kính, còn chữ quốc ngữ viết theo lối chữ Gô-tích. Nhìn tổng quan bên ngoài, kiến trúc chùa là sự giao thoa giữa Á và Âu một cách lạ mắt nhưng hài hòa.
Ngoại thất là thế, nhưng khi đặt chân vào chính điện, hậu liêu…, mới thấy kiến trúc hoàn toàn mang dáng vẻ thuần Việt, giữ nguyên những gì có được từ khi chùa kiến lập đến nay.
Chùa Vĩnh Tràng xưa vốn là một thảo am, do tri huyện Bùi Công Đạt phát nguyện xây cất để di dưỡng tinh thần sau khi về hưu. Khi ông mãn phần, hòa thượng Huệ Đăng vận động tín đồ xây dựng thành ngôi đại tự, hoàn thành vào năm 1849 với tên Vĩnh Trường, xuất phát từ hai câu đối: “Vĩnh cửu đối sơn hà / Trường tồn tề thiên địa”. Về sau, không biết từ khi nào và không biết vì sao người ta gọi chệch là Vĩnh Tràng, dù mang cùng ý nghĩa.
Khi người Pháp đánh chiếm Định Tường (Tiền Giang), chùa bị hư hại nặng, hòa thượng kế vị là Thiện Đề bắt tay trùng tu và các năm sau đó chùa được tu bổ nhiều lần khác. Trong đó, bốn đợt trùng tu chùa quan trọng nhất vào các năm 1907, 1930, 1992 và 2002.
Chùa Vĩnh Tràng có 178 cột, 2 sân thiên tỉnh và 5 lớp nhà. Chùa có 7 bộ bao lam chính (cùng nhiều bao lam phụ), thếp vàng chạm hình Bát tiên, thần Mặt trời và thần Mặt trăng, do các nghệ nhân địa phương chạm trổ công phu vào khoảng 1907-1908. Chùa có khoảng 60 tượng quý được tạo tác bằng đồng, gỗ và đất nung, được thếp vàng rực rỡ. Bộ tượng cổ nhất ở chùa là bộ Tam Tôn (Di Đà, cao 98cm; Quan Âm và Thế Chí, cao 93cm) bằng đồng. Tiếc rằng tượng Quan Âm đã bị thất lạc, phải làm lại bằng gỗ!
Hai bên tường chánh điện là bàn thờ Thập điện Minh vương Bồ tát. Đặc biệt là bộ Thập bát La hán đặt hai bên điện Phật. Bộ tượng này do tài công (thợ) Nguyên cùng học trò chạm khắc mang nét riêng của khu vực vào năm 1907. Mười tám pho tượng La hán tạc bằng bằng gỗ mun, mỗi tượng cao khoảng 0,8m, bề ngang gối là 0,58m.
Mỗi vị La hán cưỡi trên lưng một con mãnh thú, tay cầm bửu bối, tượng trưng cho các giác quan mà giáo lý nhà Phật gọi là “lục căn” (mắt, tai, miệng, mũi, thân và ý, ở ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai). Đáng tiếc là tượng 18 vị La hán (không giống 18 tượng La hán của các chùa ở miền Bắc), đỉnh cao của nghệ thuật tạc tượng tròn của khu vực đồng bằng sông Cửu Long, đã “bị” thếp vàng nhằm bảo quản cho tốt!
Chính điện chùa Vĩnh Tràng được xây
theo hình chữ “Quốc” trong tiếng Hoa.
Chùa Vĩnh Tràng có chiếc đại hồng chung cao 1,2m, nặng khoảng 150 ki lô gam, thân chuông có khắc chữ “Vĩnh Trường Tự”, được đúc giữa tháng 5-1854. Rất tiếc là chuông không còn sử dụng được vì nằm lâu dưới nước trong thời gian bị thất lạc.
Theo các chuyên viên văn hóa thì vẻ đẹp của chùa tập trung ở nghệ thuật tạo hình và có thể xem chùa Vĩnh Tràng là sự phản ánh lịch sử mỹ thuật của đất Tiền Giang. Hàng ngày, ngoài thiện nam tín nữ phật tử đến chiêm bái, còn có nhiều khách du lịch đến tham quan chùa Vĩnh Tràng; đông đảo nhất là vào các ngày rằm, mồng một, các ngày sóc vọng và các ngày lễ của
Vĩnh Tràng – Ngôi chùa đẹp nhất và có nhiều du khách đến tham quan nhiều nhất Tiền Giang
Năm 1849, hòa thượng Huệ Đăng đã vận động tín đồ góp công, góp của xây dựng chùa theo lối kiến trúc của chùa Giác Lâm ở Gia Định, nhưng to lớn hơn với 178 cây cột, 2 sân thiên tỉnh, 5 lớp nhà (chùa Giác Lâm có 98 cột, 1 sân thiên tỉnh, 3 lớp nhà). Năm 1907, hòa thượng Trà Chánh Hậu cho sửa chữa phần chánh điện. Năm 1930, hòa thượng Minh Đằng cho trùng tu toàn diện để chùa có diện mạo như ngày hôm nay. Lúc đầu, chùa có tên là Vĩnh Trường, xuất phát từ hai câu đối do chính hòa thượng sáng tác: “Vĩnh cửu đối sơn hà, Trường tồn tề thiên địa”. Nhưng về sau, chùa được gọi là Vĩnh Tràng.
Khác vối những ngôi chùa truyền thống, chùa Vĩnh Tràng không có cổng tam quan; mà thay vào đó là hai cổng ra vào được xây dựng theo lối cổ lầu và được ốp bằng nhiều mảnh sành, sứ với những màu sắc khác nhau theo chủ đề long, lân, quy, phụng, ngư, tiền, canh, mục, hoa, điểu và các điển tích Phật giáo. Chùa được xây dựng theo dạng chữ “Quốc” của Hán tự, gồm có bốn gian là tiền đường, chánh điện, nhà tổ, nhà hậu, nối tiếp nhau. Riêng mặt trước của tiền đường thì được xây dựng theo lối kiến trúc dung hòa Âu – Á với những hàng cột thanh mảnh, vòm còng và hoa văn nhiều màu sắc. Trên nóc chùa có năm mái nhô cao, tượng trưng cho ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ) theo quan niệm của phương Đông.
Tại gian chánh điện, chùa có 60 tượng quý, được tạo tác bằng đồng, gỗ, đất nung; và tất cả đều được thếp vàng rực rỡ; trong đó có giá trị nghệ thuật nhất là bộ tượng mười tám vị La hán được tạc từ gỗ mít vào năm 1909. Ngoài ra, chùa còn có bảy bộ bao lam tuyệt đẹp và chiếc đại hồng chung được đúc vào năm 1854. Xung quanh chùa là những vườn cây cảnh trồng nhiều loại hoa thơm cỏ lạ, những hồ nước thơm ngát hương sen và những cây cổ thụ che trùm bóng mát, tạo nên sự hài hòa tuyệt vời giữa khung cảnh thiên nhiên với không gian kiến trúc, khiến chùa thêm cổ kính, thâm nghiêm.
Không chỉ có ý nghĩa tôn giáo và giá trị kiến trúc – nghệ thuật, chùa còn là nơi che giấu nhiều nhà yêu nước và cung cấp hậu cần cho phong trào cách mạng. Vì thế, chùa được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử – văn hóa cấp Quốc gia, chùa Vĩnh Tràng tọa lạc tại xã Mỹ Phong , cách trung tâm thành phố Mỹ Tho khoảng 3km.
Chi tiết về Chùa Vĩnh Tràng
Du khách đến Mỹ Tho mà không đi thăm chùa Vĩnh Tràng là một điều thiếu sót. Đây là một ngôi chùa cổ danh tiếng và là một công trình kiến trúc tiêu biểu ở Nam Bộ. Chùa tọa lạc trên mảnh vườn cây ăn trái rộng gần 2 ha, thuộc làng Mỹ Hóa, nay là xã Mỹ Phong, bên con rạch Bảo Định hiền hòa nước ngọt quanh năm.
Vào mùa đầu thế kỷ XIX, chùa vốn là một bảo am do ông Tri huyện Bùi Công Đạt, phát nguyện xây cất để đi dưỡng tinh thần sau khi về hưu. Ông thỉnh hòa thượng Từ Lâm chùa Bửu Lâm về trụ trì. Sau khi ông Bùi Công Đạt qua đời, hòa thượng Huệ Đăng đã vận động tín đồ xây dựng thành ngôi đại tự với tên Vĩnh Tràng, hoàn thành năm Canh Tuất (1849).
Khu thực dân Pháp đánh chiếm Định Tường, chùa VĩnhTràng bị hư hại khá nặng. Người kế vị hòa thượng Huệ Đăng là hòa thượng Thiện Đề, sư đệ của Ngài, nối tiếp công việc trùng tu ngôi chùa. Sau khi hòa thượng Thiện Đề viên tịch, chùa Vĩnh Tràng hương tàn khói lạnh. Năm 1890 tín đồ đã đến chùa Sắc Tứ Linh Thứu thỉnh hòa thượng Trà Chánh Hậu về trụ trì chùa, Ngài quê ở Mỹ Tho, là đệ tử hòa thượng Minh Phước gốc tổ đình Bửu Lâm. Năm 1895 Hòa thượng Chánh Hậu cùng bổn đạo trùng tu toàn bộ ngôi chùa. Đến 1904, do một trận bão lớn, chùa lại bị tàn phá, vì vậy mà 3 năm sau (1907) chùa Vĩnh Tràng được trùng tu một lần nữa. Hòa thượng Chánh Hậu trụ trì được 33 năm (1890 -1923) thì qua đời. Kế tục sự nghiệp của Ngài, hòa thượng Minh Đàn, pháp danh Tâm Liễu, cho xây dựng cổng Tam Quan, mặt tiền, Chánh điện và nhà Thờ Tổ.
Trước chùa có cổng Tam Quan tráng lệ do những nghệ nhân xứ Huế thực hiện 1933. Về kinh phí được hai ông Huỳnh Tri Phú và Lý Văn Quang hỗ trợ. Chiếc cổng giữa bằng sắt lâu nay vẫn đóng kín. Hai cổng bên xây gạch vươn cao như hai tòa lâu đài cỗ. Nét độc đáo của Tam Quan chùa Vĩnh Tràng thể hiện ở nghệ thuật ghép mảnh sáng, mảnh sứ để tạo nên những bức tranh với màu sắc hài hòa, minh họa những sự tích nhà Phật, những truyện tích dân gian và những đề tài Tứ quý, Tứ linh, hoa lá… Tầng lầu thượng của cổng Tam Quan có vòm cửa rộng. Bên phải đặt tượng Hòa thượng Chánh Hậu, bên trái đặt tượng Hòa thượng Minh Đàn. Cả 2 tượng này đều đắp bàng xi măng giống như người thật, di điêu khắc gia Nguyễn Phi Hoanh thực hiện.
Tháng 10/2005 tức tháng 9 năm Ất Dậu DL. 2549 BTS/PG tỉnh Tiền Giang quyết định thay đổi 2 tượng ở cổng này, Tượng Phật Di Đà thay thế tượng Hòa thượng Chánh Hậu, tượng Phật Thích Ca thay thế hòa thượng Minh Đàn.
Mặt tiền chùa Vĩnh Tràng trang trí theo kiểu kết hợp đặc điểm kiến trúc cả Á lẫn Âu. Ở đây có những hoa văn theo kiểu thời Phục Hưng, vòm cửa theo kiểu La Mã, bông sắt của Pháp, gạch men của Nhật Bản… chữ Hán viết theo lối chữ triện cổ kính, còn chữ quốc ngữ lại viết theo lối chữ Gô-tích. Từ xa trông vào, du khách có thể hình dung ngôi chùa như đền Ăng-co có 5 tháp. Theo lời truyền tụng của nhân dân địa phương thì hòa thượng Minh Đàn và ông Huỳnh Trí Phú đã từng du lịch sang xứ chùa Tháp nên tiếp thu được cái đẹp trong kiến trúc ngôi chùa bên đó, kết hợp với kiến trúc phương Tây.
Ở chánh điện có bao lam được chạm trổ công phu, trong đó có bộ Phù điêu bát tiên cỡi thú do các nghệ nhân tại địa phương thực hiện vào 1907 – 1908 trên bàn thờ có nhiều pho tượng như A Di Đà, Thích Ca, La Hán và các tượng Bồ tát. Hai bên bàn thờ là tượng chân dung hòa thượng Chánh Hậu và người kế Pháp là Hòa thượng Minh Đàn, các hòa thượng Huệ Đăng, Chánh Hậu, Minh Đàn đều thược phái Lâm Tuế.
Bộ tượng cổ nhất ở chùa Vĩnh Tràng là bộ Tam Tôn (Di Đà, Quan Âm, Thế Chí) bằng đồng. Tiếc rằng tượng quan âm đã bị thất lạc… Sau này hòa thượng Chánh Hậu phải thuê thợ làm tượng khác bằng gỗ thế vào đó cho đủ bộ. Tượng Ngọc Hoàng cũng bằng đồng to bằng người thật, cùng phong cách với tượng Già Lam, Đạt Ma ở chùa Bửu Lâm. Khách với thông lệ xưa nay, Ngọc Hoàng ở đây không có Nam Tào, Bắc Đẩu cẩm sổ sinh tử đứng hầu hai bên, thay vào đó là ông Thiện và ông Ác.
Hai bên tường chánh điện là bàn thờ Thập Điện Minh Vương Bồ Tát. Đặc biệt ở đây có bộ tượng Thập Bát La Hán là những tác phẩm chạm khắc bằng gỗ độc đáo mà một số nghệ nhân ở Nam bộ đã tạo vào năm 1907 theo sự chỉ đạo của Hòa thượng Chánh Hậu. Bộ tượng này bằng danh mộc, mỗi tượng cao khoảng 0,80m, bề ngang gối 0,58m được đặt hai bên Điện Phật, mỗi vị La Hán có bửu bối riêng của mình tượng trưng cho các giác quan mà giáo lý nhà Phật gọi là sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý; ở ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai. Các tượng La Hán này được tạo hình cân đối, sinh động, cỡi trên những con thú như: trâu, bò, ngựa, lạc đà, hà mã, tê giác.v.v…
Trong khung viên chùa có nhiều châu cây cảnh. Hòa non bộ được chăm sóc thường xuyên. Dưới bóng cây, tháp Hòa thượng Chánh Hậu và gia đình được xây dựng bề thế có tường rào bao bọc.
Nhìn chung về về đẹp của chùa Vĩnh Tràng tập trung ở nghệ thuật tạo hình. Có ý kiến cho rằng có thể xem chùa Vĩnh Tràng là một bản tổng kết lịch sử mỹ thuật của đất Tiền Giang.
Hiện chùa Vĩnh Tràng là nơi đặt Văn phòng Ban Trị Sự Tỉnh Hội Phật Giáo Tỉnh và trước đây Trường Cơ Bản Phật Học Tỉnh Tiền Giang (tiền thân của Trường Trung cấp Phật học Tiền Giang) cũng được đặt ở đây.
Chùa Vĩnh Tràng từ lâu đã trở thành điểm du lịch và hành hương của tỉnh, thu hút du khách và Phật tử hàng ngày đến chiêm ngưỡng rất đông.
Tết Tân Dậu (1982) nhà thơ Xuân Thủy đã đến viếng chùa và viết tặng bài thơ:
“Đức Phật giàu tình thương
Nên chùa tên Vĩnh Tràng
Nhà sư vốn yêu nước
Lòng như sông Tiền Giang”