1. Từ cung trời Ðâu-suất, Bồ-tát được Phạm thiên và Tứ Thiên vương thỉnh mời tái sinh xuống thế.
2. Khi Hoàng hậu Maha Ma-da, mẹ của Ðức Phật, thụ thai, bà nằm mộng thấy một voi trắng từ một ngọn núi vàng bạc mang một đóa hoa sen đến dâng cho bà.
• 3. Ðản Sanh: Vào đêm trăng tròn tháng tư, năm 625 trước Tây lịch, Ðức Phật ra đời tại vườn Lâm-tì-ni. Sau khi sinh ra, Ngài bước bảy bước, mỗi bước có hiện ra một hoa sen nâng đở chân Ngài. Ngài tuyên bố là Ngài là người đáng tôn thờ nhất.
4. Khi ẩn sĩ Kaladevila đến thăm hoàng nhi, vị hoàng tử trẻ lập tức hiện ra trên đầu vị ẩn sĩ. Vua Tịnh-phạn, cha của Ngài, và dòng họ Thích-ca, đãnh lễ với Ngài.
5. Trong buổi lễ Hạ điền, Hoàng tử Sĩ-đạt-ta ngồi dưới một cụm cây to bóng mát và hành thiền. Mặc dù các bóng cây khác dần dần ngã dài ra theo thời gian trong ngày, bóng cây nơi Ngài ngồi thiền vẫn giữ yên như cũ. Vua cha rất vui mừng, và một lẫn nữa cúi đầu lễ Ngài.
6. Thái tử Hoàng tử Sĩ-đạt-ta có tài thiện xảo bắn cung, và đã nâng cánh cung rất nặng mà từ trước đến nay có rất ít người nâng và dùng nó. Việc hiển thị sức mạnh phi thường nầy chứng tỏ Ngài sẽ là Ðế Vương Vũ trụ.
7. Lễ Thành hôn: Các vị trời đến rải nước chúc phúc từ vỏ sò khi Thái tử Sĩ-đạt-đa kết hôn với Công chúc Da-du-đà-la. Thái tử sống hạnh phúc trong ba cung điện trong mọi ngày và đêm.
8. Ngày nọ, Thái tử Sĩ-đạt-ta dạo chơi trong thành và thấy bốn dấu hiệu của một ông già, một người bệnh hoạn, một tử thi, và một ẩn sĩ. Ngài trân quý dấu hiệu sau cùng.
• 9. Ðại Xuất Gia: Khi hoàng nam La-hầu-la chào đời, Thái tử Sĩ-đạt-ta quyết định lìa bỏ đời sống thế tục. Ngài đến thăm Da-du-đà-la lần cuối. Và Ngài thấy các cung phi nằm ngủ mê mệt, như những xác chết xấu xí trong nghĩa địa.
• 10. Thái tử Tất-đạt-ta xuất gia, rời bỏ gia đình. Ngài cùng người thị giả, Xa-nặc, cởi ngựa đến bờ sông Anoma.
• 11. Thái tử Sĩ-đạt-ta cắt tóc với một nhát gươm.
12. Tự hành hạ thể xác: Thái tử Sĩ-đạt-ta, vị Phật sắp thành, hành pháp ép xác trong 6 năm đến khi Ngài trở nên rất gầy yếu. Xương trong thân lộ ra ngoài. Nhưng sự hành hạ xác thân không đưa đến giải thoát. Khi Ngài nghe một bài hát do Phạm thiên Indra đánh đàn, Ngài liên tưởng đến loại đàn với dây không căng không chùng, và từ đó Ngài khám phá con đường trung dung, Trung Ðạo. .
• 13. Nàng Sujata cúng dường vị Bồ-tát một bát cháo sữa với mật ong. Sujata tưởng Ngài là một vị trời. Sau khi thọ thực, Ngài ném cái bát ấy vào dòng nước (và bát ấy từ từ trôi ngược dòng).
14. Bồ-tát chiến thắng Ma vương Vasavatti và đoàn tùy tùng khuấy nhiễu Ngài tại cội cây Bồ-đề. Một vị nữ thần từ lòng đất hiện ra để giúp Ngài đánh bại Ma vương. Sau đó, Ma vương chịu khuất phục, và ca tụng Ngài.
15. Giác Ngộ: vào buổi sớm mai vào ngày trăng tròn tháng tư (tháng Vesak), năm 588 trước Tây lịch, Ðức Phật thực chứng Tứ Diệu Ðế: Khổ, Nguyên Nhân của Khổ, sự Diệt Khổ, và Con Ðường Diệt Khổ.
16. Ba người con gái của Ma vương tìm mọi cách để quyến rủ Ngài. Nhưng họ đều thất bại.
17. Hai thương gia, tên là Tapussa và Bhalika, đến dâng cơm. Tứ Thiên Vương dâng Ngài bốn bình bát. Ngài biến chúng thành một bát duy nhất.
18. Phạm Thiên thỉnh mời Ðức Phật giảng dạy Giáo Pháp vì hạnh phúc cho chư thiên và nhân loại.
19. Ðức Phật giảng bài Pháp đầu tiên (Chuyển Pháp Luân) cho năm ẩn sĩ tại vườn Nai, Sanath.
20. Ðức Phật giảng pháp cho Da-xá. Sau đó, Ngài truyền giới cho Da-xá và 54 người bạn (cùng với 5 anh em Kiều Trần Như, đây là 60 vị đệ tử A-la-hán đầu tiên). Vợ và cha mẹ của Da-xá là những Phật tử đầu tiên qui y Tam Bảo.
21. Ðức Phật giảng bài Kinh Lửa Cháy cho anh em Ca-diếp Uruvela, Nadi, Gaya, cùng với 1000 đệ tử của họ, sau đó họ trở thành đệ tử của Ðức Phật và đắc quả A-la-hán.
22. Vào ngày Magha, Ðức Phật truyền Ðại Giới Bổn cho 1250 vị Tỳ kheo, và tóm tắt: "Không làm các điều ác; Gắng làm các điều lành; Luôn tu tâm tịnh ý; Chư Phật đều dạy thế."
23. Vào ngày Hoàng tử Nanda, em cùng cha khác mẹ, sửa soạn lễ kết hôn, Ðức Phật giao bát cho Nanda. Nanda miễn cưởng mang bát đi theo Ðức Phật về tinh xá. Sau đó, Ðức Phật truyền giới xuất gia cho Nanda, và đem chàng đi xem các cung trời. Về sau, Nanda đắc quả A-la-hán.
24. Vua Tịnh-phạn và Công chúa Da-du-đà-la khuyên La-hầu-la đến đòi Ðức Phật phần gia tài di sản. Ðức Phật cho phép cậu xuất gia Sa-di. Vua Tịnh-phạn rất buồn phiền về việc này. Sau đó, nhà vua đề nghị Ðức Phật không làm lể xuất gia cho những ai chưa có sự đồng ý của cha mẹ. Ðức Phật chấp nhận đề nghị đó.
25. Ðề-bà-đạt-ta đã tìm đủ cách hại Ðức Phật trong nhiều tiền kiếp. Ông ta gây chia rẻ Tăng đoàn, và tạo thương tích nơi chân Ðức Phật. Quả đất không chịu nổi ông ta. Vì thế, mặt đất nứt ra. Những ngọn lửa cực mạnh bùng cháy ra. Ðề-bà-đạt-ta rơi vào trong đám lửa ấy và tan biến.
26. Bà Kiều-đàm-di (Ba-xa-ba-đề), di mẫu của Ðức Phật, dâng cúng Ngài bộ y do chính bà tự tay dệt ra. Tuy nhiên, Ðức Phật khuyên bà nên dâng bộ y đó cho cả Tăng đoàn, như thế bà sẽ được phước báo nhiều hơn.
27. Ðức Phật ngọn lửa thiêu xác vua cha Tịnh-phạn trong buổi lễ Trà Tỳ, và dạy tứ chúng về lòng hiếu thảo.
28. Ðức Phật đến cung trời Ðao-lợi để giảng Thắng Pháp (Vi Diệu Pháp) cho thân mẫu là Hoàng hậu Ma-da.
29. Vào ngày Ðức Phật từ cung trời Ðao-lợi trở về, chư thiên và loài người tề tụ nghênh đón. Ðức Phật dùng thần thông cho họ thấy được toàn thể mọi thế giới.
30. Angulimala, tên cướp sát nhân, định giết mẹ của hắn. Khi gặp Ðức Phật đang đi trì bình, hắn đổi ý và muốn sát hại Ðức Phật. Hắn chạy theo Ðức Phật và gọi Ngài hãy đứng lại. Ngài trả lời là Ngài đã dừng lại từ lâu, có nghĩa là Ngài đã ngưng mọi hành động sát hại. Angulimala tỉnh ngộ, quăng bỏ khí giới, và xin thọ giới. Về sau, ông ta đắc quả A-la-hán.
31. Ðức Phật nhập Bát-Niết-bàn trong rừng Sala, gần thành Kusinara, năm 543 trước Tây lịch, sau 45 năm hoằng pháp độ sinh.
32. Phân chia Xá-lợi của Ðức Phật: Một vị bà-la-môn tên là Tona khuyên các vua đến từ bảy vương quốc không nên tranh nhau về Xá-lợi của Phật, mà hãy nghiêm túc thực hành theo Giáo Pháp. Sau đó, vị nầy phân chia đồng đều các phần Xá-Lợi cho các vị vua đó.