1. Xuất xứ Y của Phật giáo: Ngày xưa khi Đức Phật còn tại thế một hôm Ngài bảo ngài A-nan rằng: "Này A-nan, các hàng đệ tử của các Đức Phật ở quá khứ đã từng mặc áo Ca-sa, các hàng đệ tử của chư Phật ở vị lai cũng sẽ mặc áo Ca-sa, Ta nay dùng dao kéo cắt thành áo Ca-sa cho các hàng đệ tử Sa-môn (chúng xuất gia) mang đắp. Áo Ca-sa sẽ không bị giặc giả cướp mất. Áo Ca-sa được gọi là giải thoát phục, cũng gọi là phước điền y. Nếu có chúng sanh nào khởi ác tâm hướng đến tam thế chư Phật, Bích Chi La hán và những người mặc áo Ca-sa, chúng sanh ấy phải chịu quả báo đau khổ nhiều không kể xiết. Vì sao thế, vì áo Ca-sa hoại sắc là Tiêu thức của Thánh hiền. Trái lại, nếu có chúng sanh nào hay phát tâm kỉnh trọng thì sẽ được phước báo vô lượng. Chính ta cũng nhờ có tín tâm kỉnh tín và mang đắp ca-sa mà ngày nay được thành chánh quả" (kinh Hoa-Nghiêm). Với tài liệu trên cho ta thấy rằng Pháp y không phải mới được sáng chế trong thế hệ hiện tại của Đức Phật Thích Ca, mà ở đời quá khứ các Đức Phật cũng đã từng mang đắp và đã dạy các hàng đệ tử mang đắp rồi.
2. Ý nghĩa Y của Phật giáo: Y là một thứ pháp phục của những người xuất gia. Ý nghĩa của thứ Pháp phục này thì nhiều nhưng có thể tóm tắt trong hai điểm. Một là muốn cho lối ăn mặc của người xuất gia khác với lối ăn mặc thông thường của thế gian, cốt để giảng trạch giữa người Tăng, kẻ tục. Hai là để tiêu biểu cho giới đức phẩm hạnh cùng tôn chỉ ý chí siêu trần của người xuất gia theo đạo Phật. Cũng vì hai ý nghĩa trên nên về phương diện chế tác hình thức và màu sắc, pháp-phục đã được khác hẳn với thường phục, còn về ý nghĩa thì pháp phục lại được mang những danh từ khác nhau để tiêu biểu như: Nhẫn nhục khải, phước điền y hay giả thoát phục v.v...
3. Phân loại Y của Phật giáo: Ngoài ra cũng muốn được dễ dàng phân biệt các Phật sự của chúng Tăng, nên pháp phục được chia làm 3 loại sau đây:
1. An đà hội: Dịch là Tác-vụ-y. Nghĩa là thứ y mặc trong khi làm việc khi ra đường. Y này có 5 điều, mỗi điều chia làm 3 khoản, 2 khoản dài một khoản ngắn.
2. Uất-đa-la Tăng: Dịch là Nhập chúng Y. Nghĩa là thứ y dùng trong những khi nhập chúng, thọ trai, nghe giảng, tụng kinh, tọa thiền, lễ Phật, Tháp và các vị cao Tăng. Y này có 7 điều, mỗi điều chia làm 3 khoản, hai khoản dài và một khoản ngắn như kiểu y trên.
3. Tăng-già-lê: Dịch là Tạp toái Y hay Đại Y. Nghĩa là thứ Y lớn nhất trong các loại Y. Thứ Y này chia làm 3 phẩm là Hạ, Trung và Thượng, Hạ phẩm cũng chia làm 3 là Hạ hạ, Hạ trung và Hạ thượng. Y Hạ hạ có 9 điều Y Hạ trung có 11 điều và Y Hạ thượng có 13 điều. Trung phẩm cũng chia làm 3 là Trung hạ, Trung trung và Trung thượng. Y Trung hạ có 15 điều, Y Trung trung có 17 điều và Y Trung thượng có 19 điều. Thượng phẩm cũng chia làm 3 là Thượng hạ, Thượng trung và thượng thượng. Y Thượng hạ có 21 điều, Y Thượng trung có 23 điều và Y Thượng thượng có 25 điều.
Y hạ phẩm có từ 9 điều đến 13 điều, mỗi điều cũng chia làm 3 khoản: Hai khoản dài và một khoản ngắn như hai kiểu Y trên. Y trung phẩm từ 12 đến 19 điều, mội điều chia làm 4 khoản, 3 khoản dài một khoản ngắn. Y thượng phẩm từ 21 điều đến 25 điều, mỗi điều cũng chia làm 4 khoản, 3 khoản dài một khoản ngắn như Y trung phẩm.
4. Màu sắc Y của Phật giáo
4.1. Màu sắc Y của Phật giáo đổi thay theo thời gian: Kế theo, màu sắc của cà sa (kasàya), tức pháp y do Phật chế định là hoại sắc, không phải chính sắc (xanh, vàng, đỏ, trắng và đen). Về hoại sắc, đa phần các bộ Luật tán đồng quan điểm hoại sắc gồm các màu pha như: màu xanh dương đậm (xanh+đen), màu bùn (nâu+đen) và màu mộc lan (đỏ+đen). Ngoài ra, còn có quan niệm cho rằng hoại sắc là hoà lẫn cả năm màu chính để thành một màu khác (Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bản Sớ). Đến thời Phật giáo bộ phái thì có năm bộ phái màu sắc y phục khác nhau như: xanh (Hoá điạ bộ), vàng (Đại chúng bộ), đỏ (Pháp tạng bộ), đen (Thuyết nhất thiết hữu bộ), và mộc lan (Am quang bộ) (Đại Tỷ Kheo Tam Thiên Oai Nghi, q.Hạ). Theo quan điểm Bách Nhất Yết Ma, q.9: “Phàm là cà sa, phải nhuộm cho hoại sắc: hoặc xanh (màu rỉ đồng), hoặc thâm (màu bùn), hoặc vàng nghệ (màu đất nung)”, đây là ba màu cà sa như pháp. Đa phần Tăng sĩ Phật giáo An độ mặc y màu vàng nghệ hoặc nâu đỏ. Phật giáo Trung Quốc thời Hán-Nguỵ, pháp y màu đỏ, về sau thêm màu đen, xanh và vàng thẫm.
4.2a. Màu sắc Y của Phật giáo Việt Nam: Phật giáo Việt Nam do đặc điểm dung hội nhiều hệ phái Phật giáo như: Bắc tông (chiếm đa số), Nam tông, Khất sĩ, Hoa tông… nên màu sắc y phục của Tăng Ni rất đa dạng, có nhiều khác biệt. Màu pháp phục (y và áo hậu) của chư Tăng Ni Bắc tông là màu vàng, riêng Ni giới thì áo hậu màu lam (có nơi màu nâu). Màu y vàng biểu trưng cho năng lực chánh niệm làm nền tảng để thành tựu định tuệ. Màu vàng còn là màu của tuệ giác, tượng trưng cho sự siêu việt thế gian, buông bỏ, xả ly, không chấp thủ và thành tựu giải thoát.
Ngoài ba y, chư Tăng Ni Bắc tông còn có thường phục là bộ đồ ngắn (vạt hò), áo dài (áo nhật bình, áo tràng). Sở dĩ gọi thường phục nhằm phân biệt với pháp phục (chỉ mặc trong lúc hành lễ). Thường phục này gồm hai màu chủ đạo là màu nâu sồng và màu lam.
Màu nâu sồng (đen+đỏ hoặc vàng+đỏ sẫm) là màu tối, màu của đất, không đẹp tượng trưng cho sự giản dị, chân chất, bền bỉ, trầm mặc có khả năng kham nhẫn, chịu thương chịu khó. Mặt khác, màu nâu sồng còn biểu trưng cho sự thanh đạm nhưng đầy hùng lực của đời sống phạm hạnh, ly tục. Chư Tăng Ni và Phật tử miền Bắc hầu hết trang phục là màu nâu sồng này.
4.2b. Màu lam (khói) cũng là màu thường phục của Tăng Ni đồng thời là màu lễ phục của Phật tử (áo tràng, áo đoàn Gia đình Phật tử). Màu lam là màu hoà hợp không rực rỡ cũng không quá u trầm. Màu lam tượng trưng cho tinh thần bình đẳng, hòa đồng, tinh tấn và nhẫn nhục của người con Phật. Đặc điểm của màu lam là dễ dơ nhưng khó thấy, giống như tâm chúng sanh bao hàm nhiễm ô và thanh tịnh. Tịnh hay nhiễm cũng đều xuất phát từ nơi tâm. Nếu để cho phiền não, nhiễm ô dấy khởi thì che khuất phần thanh tịnh, sáng suốt và ngược lại nếu xa lìa phiền não, tham ái thì chân tâm, Phật tánh ngày càng hiển lộ. Vì thế, khoác lên mình màu áo lam để nhắc nhở người con Phật nỗ lực tu tập, thực hành Chánh pháp.
Đối với chư Tăng Ni đắp y theo truyền thống, màu vàng tươi hay vàng sẫm thuộc hệ phái Khất sỹ. Chư Tăng Nam tông đắp y theo truyền thống và thường có màu nâu đỏ, đỏ sẫm hay vàng sẫm. Vị “Ni” đắp y màu trắng là tu nữ thuộc Phật giáo Nam tông, tuy có hình thức xuất gia nhưng thực chất những vị này chỉ là cư sỹ (bạch y) thọ tám hoặc mười giới để tu tập.
Trường hợp chư Tăng mặc thường phục toàn màu vàng là những vị cao đức hoặc thiền sinh thuộc các thiền viện.
Riêng những Phật tử mặc áo tràng màu đen thuộc các đạo tràng Phật giáo Hoa tông, chủ yếu là cộng đồng Phật tử người Việt gốc Hoa tại Chợ Lớn, TPHCM.
5. Kết luận về Y của Phật giáo: Tuy màu sắc y phục có sự khác nhau do đặc điểm hệ phái, tông phái nhưng tất cả các hệ phái đều tu tập theo lời Phật dạy và hòa hợp, bình đẳng trong Giáo pháp của Như lai.